Nghệ thuật điêu khắc Phật giáo thời nhà Lý

Ngày 07/04/2017 4,113 lượt xem

Bia chùa Phân Tích cho biết tại đây năm 1057 vua Lý Thánh Tông dựng cây tháp cao ngàn trượng trong tháp có pho tượng bằng đá thếp vàng cao 6 thước, trước thềm bày mười con thú cũng bằng đá. Một số chùa thời Lý cũng có bia đề cập tới tượng tròn và chạm khắc trang trí.

1. Tượng tròn
Tượng tròn thời Lý hiện còn có tượng Phật, Kim Cương người chim và tượng thú. Mỗi loại còn được vài pho

a. Tượng phật Thế Tôn
Các chùa Phật Tích, Ngô Xá ( Chương Sơn) và Kim Hoàng đều chỉ để lại mỗi chùa một pho tượng Phật. Các chùa Thầy, chùa Chèo và chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh không còn tượng nhưng còn bệ tượng và toà sen thích hợp với một pho tượng Phật ngồi trên.Các chùa Một Cột, Long Đọi, Linh Xứng được văn bia xác nhận có tượng Phật.

Tượng Phật chùa Phật Tích vốn được gọi là đức Thế Tôn ở thế ngồi thiền cao 1m85 ( tương đương 6 thước thời Lý). Phần bệ không còn nguyên và đã làm lại toà sen cao thêm 0m84 nữa, vốn xưa ở trong lòng tháp và được thếp vàng. Đã từ lâu phần sơn thếp bong hết để lộ đầy đủ phần lõi được chạm rất cẩn thận và hoàn chỉnh.

Tượng được bố cục theo khối nón vững vàng, ngồi thiền khuỳnh hai đầu gối, lưng thẳng đứng, mắt hơp cúi xuống, do đó từ trên cao có sự giao cảm với các Phật tử đang chiếm bái. Toàn thân tượng khuôn trong đường viền khép kín, nhưng do mảng khối óng chuốt nên cứ chập chờn – nhất là khi được chiếu sáng. Tượng mang vẻ đẹp quý phái cảu người phụ nữ Việt Nam. Mặt trái xoan, cổ cao 3 ngấn, thân hình dong dỏng, mình mỏng. Đỉnh đầu có nhục kháo nhô cao, tóc xoăn, tai dài là những quý tướng. Đôi mắt đăm chiêu khép hở, cặp lông mày thanh cong giao tế nhị, các ngón tay thon thả. Tấm áo dài óng ả có đường gân cuộn xoáy ở bả vai phải, rồi lượn theo các nếp áo như trôi chảy vào không gian, chỉ đọng lại ở thân mình vì bị ” vướng”.

Tượng Phật A Di Đà tại chùa Phật Tích, Bắc Ninh. Ảnh: Minh Thọ (2014)
Tượng Phật A Di Đà tại chùa Phật Tích, Bắc Ninh. Ảnh: Minh Thọ (2014)

Tượng được tạo bằng những mảng khối óng mượt, đường nét minh triết, từng chi tiết tao nhã và trí tụê. Tất cả toát lên vẻ đẹp cổ điển về một tâm hồn từ bi, vị tha. Khối tượng tính lặng, trang nghiêm nhưng được đặt trên toà sen nửa khối cầu lại toạ ấn tượng chao đảo. Toà sen này làm lại ở thời sau, hơi nhỏ so với khuỳnh chân ngồi thiền. Đối chiếu với bức bệ tượng các chùa khác cùng thời kỳ dưới toà sen còn thiếu khối tượng sư tử hay đôi lân chầu ngọc.

Phần dưới cùng là bệ bát giác khối nón gồm nửa dưới là những lớp sóng vừa dàn ra lại vươn lên, từng đợt mênh mông vô tận, nửa trên là hai tầng bậc cấp thu vào, có mặt nằm chạm hoa dây như cúc cuống hoa có người bé tí leo trèo, có mặt đứng chạm rồng rắn thoắt đuôi nhau, Ngược với khôi tượng trơn, phần bệ phủ kín hoa văn với kỹ thuật tỉ mỉ, chính xác như chạm vàng bạc.

Chùa Ngô Xá ở chân núi cũng có pho tượng Phật đưa từ phế tích tháp Chương Sơn ở đỉnh núi xuống, lớn bằng người thực, cấu tạo chung giống như tượng chùa Phật Tích, nhưng khuôn mặt thực hơn với người Việt ( long mày không giao nhau, mũi hơi gãy, mặt hơi xếch, tai không chảy). Tượng Phật chùa Kim Hoàng bị mất đầu, thân hình cso thô hơn tượng Phật Tích một chút nhưng về tổng quát lại rất gần gũi.

b. Tương Kim Cương

Thư tịch nói rõ bốn cựa tháp chùa Báo Thiên có bốn cặp tượng Kim Cương trấn giữ. Tượng Kim Cương chùa phật Tích dược đưa về Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam. Tượng Kim Cương chùa Long Đọi còn 6 pho gắn vào tường chùa, là tượng tròn nhưng sau lưng gắn liền vào đá tấm. Tượng to băng người thực, đẹp khoẻ mạnh, dáng ung dung cương nghị, khuôn mặt đồn hậu, là võ tướng nhưng không ở các thế võ, cơ bắp thả lỏng, đứng nghiêm chống kiếm trước bụng, trên y phục được chạm nhưng bông hoa nhiều cánh xoè nở gây cảm giác toàn thân tượng như phập phồng thở. Tấm đá nền sau tượng, ở diềm đứng chạm các ô tròn hoa sen to và nối với nhau bằng hình người bé ti trong ô tròn nhỏ.

 

c. Tượng người chim

Trong phế tích các tháp Phật Tích, Long Đọi và Chương Sơn đã tìm được một số tượng người chim vốn xưa đậu trên những đấu chạc dưới các tâng mái. Đây là nhân vật thần thoại, nửa trên là người nhưng ngoài đôi tay còn thêm đôi cánh, nửa dưới hoàn toàn là chim. ở Long Đọi, người chim đánh chũm choẹ, còn ở Phật Tích có người chim đánh trống cơm, có người chim gẩy đàn nguyệt. Là nhân vật thần thoại song từng phần lại rất thực, hoạt động nghệ thuật sôi nổi, nét mặt tập trung vào âm thanh cảu những nhạc cụ đang biểu diễn, đôi canh cũng như vỗ theo và những túm lông đuôi uốn lượn bay lên mềm mại. Có thể xem đây là những nhạc công thiên thần.

d. Tượng thú

Nếu ở bệ tượng Phật thường có tượng sư tử đội toà sen mà dân gian gọi là ” ông Sấm”, thì ở thềm tầng bậc thứ 2 cảu chùa Phật Tích có 5 cặp tượng thú dàn thành một hành ngang hai bên cửa đối nhau.

ông Sấm ở chùa Bà Tấm chỉ có phần đầu, hai con đội chung một toà sen, ở thế nằm cao 1m, rộng 1m36, còn ở chùa Hương Lãng (Hưng Yên) chỉ có một con chạm cả phần đuôi, dài 2m30 còn phần đầu như ở chùa Bà Tấm. Hình dáng là con sư tử phủ phục đội toà sen, trán có chữ Vương là chúa rừng xanh. Ngoài những lông xù cuộn xoáy, dọc chân và quanh mép còn có hang hoa văn dấu hỏi tựa nhau, quang miệng có những bông hoa nhiều cánh, phần đuôi được trang trí rất kỹ, có lẽ do sư tử gầm như tiếng sấm, lại cũng do ước vọng cần mưa nên địa phương gọi sư tử là ” ông Sấm”.

Còn 5 cặp tượng thú chùa Phật Tích, từ giữa toả ra là sư tử – voi – trâu – tê giác – ngựa, tất cả đều to bằng trâu ngựa thực và đều nằm trên toà sen, là những con vật thiêng cảu thế giới nhà Phật.

Tượng và bệ liền khối đá. Trang trí phần bệ đáng chú ý hơn cả là con vật thần thoại gần giống như người nhưng đươi lại uốn lượn như mình rồng, chạm tinh tế, thống nhất phong cách nghệ thuật Lý. Song phần tượng, cả 5 loại thú đề là những con vật thực, từ con vật rất thân thuộc ( trâu) đến những con vật hầu như không có ở Việt Nam ( sư tử) nhưng đều được chạm rất thực, khối hình to mập, dáng khoẻ chắc, cso phần xa với phong cách Lý mà đến thời Trần mới phát triển.

2. Chạm khắc trang trí

Trong điêu khắc Lý đặc biệt phải kể đến mảng chạm nổi trên đá với sự tinh khéo như chạm vàng, bạc. ở đây nổi lên một số đề tài là rồng, nhạc công, vũ nữ và hoa lá.

a. Hình rồng rắn

Có một số con rồng rất lớn, thân đuôi ra dài vài mét ( như ở cột đá chùa Dạm, đế bia chùa Long Đọi và chùa Chương Sơn, trong ao rồng cảu Phật Tích), song phần lớn là những con rồng nhỏ dài mười phân nằm trong một số đồ án gọn xinh theo các hình tròn, thoi, chữ nhật, lá đề, nửa lá đề … nhưng luôn thống nhất về cấu tạo : đầu to với bờm tóc mượt bay, răng nanh cuộn xoắn với môi trên lại có thêm đường viền thành chiếc mào phập phồng như ngọn lửa, mũi như đoạn vòi co dãn, lông mày cuộn vòng lên cả hai đầu và cạnh đó là hình trang trí chứ S không bao giờ thiếu vắng, là dấu hiệu về nguồn nước.

Thân rồng tròn trịa, dài nhỏ, uốn thắt túi thoăn thoắt như chiếc lò xo ẩn tàng sức bật mạnh, cứ thế thu nhỏ về đuôi, nếu không để ý đến chân thì không phân biệt được thân với đuôi, dọc lưng có đường vây nhưng vảy cá và dưới bụng là dãy nếp gấp như bụng rắn để dễ di chuyển. Rồng có 2 chân trước mọc lệch chố và2 chân sau mọc cùng chố, chân sau cũng dài hơn hẳn, chân nào cũng như múa rất dẻo, mỗi chân có ba ngón với móng cong nhịn sắc như của chim. Một số người quên gọi là rồng giun, nhưng ngay ở đương thời người xưa đã nhiều lần gọi là long xà tức là rồng rắn, lấy con rắn làm cơ bản rồi thêm vào một số hoạ tiết khác, làm cho con vật thần thoại mà thân thuộc như con vật thực. Nền rồng là mây trời nhưng cũng có khí là hoa lá. Trong cấu tạo, con rồng có cả yếu tố âm và dương, nó lưỡng cư và lương tĩnh, tuy đã gần với triều đình, nhưng về bao quát vẫn là con vật biểu trưng nguồn nước, là chố dựa của cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước, cảu cư dân gắn vận mệnh với sông nước, và phần nào cũng nhắc nhở nguồn gốc dân tộc và con rồng cháu tiên. Hình rồng Lý là hình trạng trí đạm chất Việt Nam, có tiếp nhận mộ số yếu tố văn hoá Đông Sơn và văn hoá phương Nam, rất khác rồng Trung Quốc trước và cùng thời với nó.

b. Nhạc công và vũ nữ

Chùa Phật Tích có một số chân tảng đá kê cột cảu thời Lý được dừng lại, mặt trên chạm thành bông sen nở xoè nhiều cánh, còn bốn mắt bên là bốn dàn nhạc giống nhau.

Mỗi mặt chân cột là một băng ngang dài 73cm cao 13cm, người xưa tạo ra một khung hình cách mép gần 1cm, trong đó viền hai bên và phái trên là dải dấu móc tựa lưng nhau như cách hoa, còn viền phía dưới là dải song hai loại chồng chất như ở bệ tượng Phật, giành ra khoang giữa dài 70cm cao 9,5cm để chạm dàn nhạc : chính giữa là một vòng sáng lá đề bên trong có vài bông hoa như hoa cúc, tất cả được đặt trên một bông sen, hẳn là hình tượng trưng cho đức Phật. Hai bên có mười nhạc công chia đôi, dàn thành hàng ngang múa tiến vào vòng sáng, động tác múa thống nhất nhưng tay lại biểu diễn những nhạc cụ khác nhau, từng cặp từ hai đầu vào giữa là trống cơm và trống da, đàn nguyệt và nhị, tiêu và sáo, đàn tranh và đàn thập lục, cặp phách nở và chập. Từng người đều chân thấp chân cao, mình uốn vặn ba khúc, từ búi tóc cao và cổ chân còn toát ra nhưng dải lụa bay lượn nhịp nhàng, phục trang đẹp gọn làm nổi các đường lượn của thân thể tròn lẳn.

Bức chạm đông người mà không che khuất nhau, ai cũng ở chính diện với độ lớn bằng nhau, ở đây như có cả tính dân chủ công đồng làng xã.

Đề tài vũ nữ còn được thể hiện ở tay vịn thành bậc cửa tháp Chương Sơn, cả 2 mặt giống nhau : lớp trên chạm bảy vũ nữ, lớp dưới chạm băng hoa. Băng hoa mặt trong chia ra các ô tam giác vuông cân để ứng với các đầu bậc thì để trơn, và do đó bức chạm phải để dốc 450 hình người mới đứng. Băng hình vũ nữ cao 0m27 và dài 2m15, từng hình đều to, rõ và dáng chung như các nhạc công Phật Tích nhưng hai tay đaư lên cao dâng hiến, tay trước cầm cả hoa và lá sen cuộn tròn.

c. Hình hoa lá

Trên nhiều mặt phẳng cảu kiến trúc và của bệ tượng người xưa thường chạm hoa lá theo từng băng dài, phần lớp là cúc sen đan xen nhau. Dây hoa với nhữg lá nhỏ toả về hai bên là chung cho cả hai thứ hoa, uốn lượn bao lấy từng bông hoa tròn. Hoa được cách điệu nhưng có thể nhận ra sen và cúc, có khi chỉ là hoa cúc nhưng nhìn góc độ khác nhau, đều lớn như nhau. Hai loại hoa này thường được gán cho hai tính chất thanh cao ( sen) và ẩn sĩ ( cúc), song trong văn hoá tâm linh nó còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn. Nhà thơ Trần Nguyên Đán ở thời Trần đã nhận ra ở hoa cúc có khí mạnh và tài năng cảu trời đất, nó coi thường cả uy của sương và sự lấn của tuyết.

Cúc còn tượng trưng cho mặt trời để đôi rồng chầu vào, là biểu hiện của khí dương. Còn sen ở nước,cả trong Phật thoại và triết lý dân gian đều xem là dấu hiệu yếu tố âm, gợi hình mặt trăng. Hình chạm hai thứ hoa này đan xen nhau còn là sự hoà hợp âm dương để tạo phúc cho cuộc sống cả xã hội, và do đó gắn với cuống hoa thường có hình người bé tí trèo sống động.