
Hệ thống Tượng Phật Chùa Thầy với Phật Giáo Mật Tông

Mật Tông khi truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với chân tế, cầu hồn, pháp thuật, yển bùa trị tà ma chữa bệnh…(3). Như vậy, chùa Thầy được coi là một trong những ngôi chùa mang đậm dấu ấn của phái Mật Tông, chủ trương dùng hình tượng cụ thể kết hợp với mật chú, mật ngữ để khai mở trí tuệ và giác ngộ, thường sử dụng các yếu tố: phong thuỷ, nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình, sắp đặt điêu khắc, đồ thờ để tạo hiệu quả thị giác, để người Phật tử tự suy ngẫm đi đến giác ngộ. Tất cả những yếu tố này được qui gọn trong bốn pháp Mạn Trà la bao gồm: “Đại Mạn Trà la, Tam muội gia Mạn Trà la, Pháp Mạn Trà la, Yến Ma Mạn Trà la”.
Trọng tâm của hệ thống tượng Phật là ở chùa Trung (Đại Hùng Bảo Điện). Cách sắp xếp cơ bản vẫn chia trên hai chục chính: Trục ngang (thời gian) là bộ tượng Tam Thế (Quá khứ, hiện tại, tương lai) và trục dọc (không gian) gồm tượng Tuyết Sơn – Di Lặc – Thích Ca sơ sinh. Mỗi nhóm tượng được chú trọng, nhấn mạnh đến thần thái, cách tạo hình ứng với chức năng của tượng. Bộ tượng tam thế tượng trưng cho ba ngàn đức Phật trong ba kiếp, cho tính bình đẳng về Phật tính, do đó ba pho tượng hình dáng, kích thước tư thế tọa thiền tương tự nhau chỉ khác thế tay và một vài chi tiết trang trí. Nhóm tượng Di Đà Tam Tôn bao gồm Bồ Tát Đại Thế Chí – A di đà – Bồ Tát Quan Âm. Ba tượng này có thế ngồi tọa thiền kiết già (yoga), khiến tâm không thể lay động. Điểm đặc biệt ở ba pho tượng này là phong cách tạo hình mới chú trọng yếu tố trang trí bằng hệ thống hạt nổi, bao gồm những hạt tròn to nhỏ khác nhau, kết hợp với hoa cúc mãn khai kết năm hàng dọc, ba hàng ngang bao quanh thân tượng. Chưa có tượng nào trước và sau này lại có nhiều hạt như vậy. “Đó là hàng hạt kỳ ảo, được chạm theo một qui luật bắt nguồn từ ý nghĩa của Mật Tông (gọi là bí mật giáo, một Phật phái tin vào linh phù, châu ngôn, pháp ấn) tạo ra cái linh thiêng”(9).
Tiếp đó, theo trục dọc là tượng Tuyết Sơn-Di Lặc-Thích Ca sơ sinh tượng trưng cho ba đoạn đời tu hành của Phật. Tuyết Sơn là Phật ở giai đoạn tu khổ hành, chưa thành Phật, còn đau đáu về cuộc đời, với hình dạng một nhà sư gày gò, ngồi an tịnh, trầm mặc, khuôn mặt đầy suy tư. Di Lặc được coi là vị Phật của tương lai, đấng Từ Tôn cứu thế, người ta cho rằng “Di Lặc xuất thế thiên hạ thái bình”. Bởi vậy tượng Di Lặc thường béo tốt, mặt tròn, bụng phệ, chân tay ngắn, tư thế một chân co, một chân chống, khuôn mặt tượng luôn cười hớn hở bắt nguồn từ đại tâm từ bi hỉ xả của ngài (10). Cuối cùng là tượng Thích Ca sơ sinh một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất ý nghĩa “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn”, xung quanh có chín con rồng tượng trưng cho mây trời linh thiêng hội tụ lấy nước thiêng tẩy trừ những uế trọc cho đức Phật.

Bao bọc hai bên Tam Bảo là hành lang với hệ thống tượng La Hán, hiện thân của những người tu hành xuất thân từ nhiều tầng lớp có tiểu sử, cá tính, lối tu khác nhau do vậy cũng là nhóm tượng sinh động, hiện thực, tạo nhiều cảm hứng. Tuy nhiên 18 vị La Hán bằng đất ở chùa Thầy không phải là nhóm tượng đặc sắc về thẩm mỹ và tạo hình. So với một số chùa cùng niên đại thế kỷ XVII, hệ thống tượng chùa Thầy có số lượng ít, không đầy đủ, phần nào cho thấy vai trò của Từ Đạo Hạnh trong chùa lớn hơn vai trò của Phật giáo.
Tượng Từ Đạo Hạnh ở ba kiếp khác nhau được thờ trong điện Thánh: tượng kiếp tu tiên đặt trong khám thờ bên trái, giữa là tượng chân thân của họ Từ, bên phải là tượng Lý Thần Tông, hóa thân Từ Đạo Hạnh. Nếu pho chân thân Từ Đạo Hạnh mang tính chân dung thể hiện khuôn mặt khắc khổ gân guốc, trong trang phục áo cà sa, mũ pháp sư, ngồi thiền định thì tượng Lý Thần Tông mang nhiều yếu tố tượng trưng, kích thước lớn hơn người thực. Sinh động, độc đáo nhất là tượng Từ Đạo Hạnh ở kiếp tu tiên đặt trong khám thờ. Theo yếu tố Mật giáo tượng Phật được tạo hình động, yếu tố cơ học được thể hiện ở pho tượng này. “Pho tượng có kích thước bằng người thực, làm bằng gỗ chiên đàn đặt trong khám thờ. Khi xưa trong ruột tượng có đặt dây máy theo lối con rối, do đó mỗi khi mở cửa khám tượng từ từ đứng dậy, đóng cửa khám tượng lại từ từ ngồi xuống. Về sau… mới cắt dây máy, và tượng ngồi luôn…”(11).
Có thể thấy tượng Phật đã được thể hiện bằng nhiều yếu tố hình tượng, màu sắc, chất cảm để chuyển tải ý tưởng của đạo Phật. Điểm nổi bật của tượng Phật giáo nói chung, tượng chùa Thầy nói riêng là trạng thái Thiền định, tĩnh tại, trừ tượng Kim Cương ở thế động còn đều có thế tĩnh, tọa sen thiền định hay đứng thẳng. Cái động chỉ nằm ở thế ấn quyết trên các cánh tay tượng Phật, một mặt tạo ra sự linh thiêng, mặt khác, trong không gian ngôi chùa, nó có tác dụng giúp Phật tử thâm nhập vào ý nghĩa của việc tu hành.
Về hình và màu, tượng Phật thể hiện sự viên mãn hoàn chỉnh đầy đủ 32 quý tướng nhà Phật: tai dài, mặt tròn đầy, tóc bụt ốc… Y phục cân đối tĩnh tại, hài hòa thiên địa nhân. Riêng các tượng La hán có cá tính riêng do xuất thân, tiểu sử của mỗi vị. Tượng Thánh mang tính chân dung, hiện thực, đặc biệt chú trọng đến tính động, tác dụng mạnh tới thị giác người xem.
Về chất liệu: Các nghệ nhân phối hợp giữa gỗ và đất để tạo hình phong phú. Nếu tượng gỗ với màu của vàng, đỏ của sơn, màu cánh gián dưới ánh đèn nến tạo cảm giác lung linh, huyền ảo. Tượng đất hút màu tạo nên độ trầm sâu cho các pho tượng. Tuỳ loại tượng, tuỳ chức năng mà hệ thống tượng được sử dụng trang trí màu sắc cho phù hợp. Tượng Phật, đặc biệt tượng Tam thế, được sơn son thếp vàng tạo vẻ trang nghiêm, linh thiêng. Tượng La hán, Hộ pháp sử dụng màu mạnh, tươi, tương phản gây ấn tượng mạnh về sự trấn áp, oai phong, tạo cái động. Tượng Tuyết Sơn màu đen, thể hiện giai đoạn khởi thủy, tu hành theo lối khổ hạnh của Phật.
Không chỉ sử dụng hệ thống điêu khắc, chùa Thầy còn sử dụng tổng hợp các yếu tố sắp đặt kiến trúc không gian ánh sáng để chuyển tải giáo lý Phật pháp đến với Phật tử. Đó là yếu tố phong thuỷ tìm sự hòa hợp con người – thiên nhiên, tạo vật. Từ ngoài vào chùa cũng là sự chuyển trạng thái từ nơi cuộc sống thế tục để bước vào một thế giới yên tĩnh lắng đọng. Tiền đường bao giờ cũng là nơi trống vắng, ít tượng, tạo không gian yên tĩnh. Trong cái không gian đó, tượng Hộ pháp to lớn, oai phong có tác dụng trấn áp sự ngạo mạn trong mỗi con người. Càng đi sâu vào chùa Phật tử càng được đến gần với cõi Phật. Nơi tiếp xúc trọng tâm nhất là Phật điện, đông đảo vị Phật đang cứu độ, giáo hóa chúng sinh. Về ánh sáng càng đi sâu vào chùa, ánh sáng tự nhiên càng mất dần để chuyển sang ánh sáng của đèn, nếu giúp con người tĩnh tâm suy ngẫm tạm xa rời cuộc sống đời thường.
Nghệ thuật bày đặt điêu khắc, kiến trúc độc đáo, đẹp đẽ linh thiêng, kết hợp với cảnh quan thiên nhiên vốn có (cụm di tích Chùa, hang động tự nhiên) và truyền thuyết linh thiêng về vị thiền sư Từ Đạo Hạnh đã đưa chùa Thầy vào hàng đệ nhất trong di sản nghệ thuật kiến trúc Phật giáo cổ truyền. Đến nay, chùa Thầy vẫn cuốn hút khách hành hương đến vãn cảnh, cầu phúc cầu tài, và hấp dẫn các nhà nghiên cứu tìm hiểu về giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ, lịch sử, tôn giáo nơi đây.
Chú thích:
1. Nguyễn Hùng Hậu (Minh Không), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 2002.
2. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng, Mỹ thuật của người Việt, Nxb Mỹ thuật 1989.
3. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP.Hồ Chí Minh, 1997.
4. Hòa thượng Thích Thiện Hoa, Bản đồ tu Phật, Thành hội Phật giáo TpHCM.
5, 7. Phạm Ngọc Trung, Bước đầu khảo sát chùa Thầy, Tư liệu Viện Mỹ thuật.
6. Chu Quang Trứ, Sáng giá chùa xưa mỹ thuật Phật giáo, Nxb Mỹ thuật.
8. Cục Di sản văn hóa, Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, Nxb Hà Nội, 2005.
9. Trần Lâm Biền, Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2003.
10. Nguyễn Tiến Cảnh, Nguyễn Du Chi, Trần Lâm, Nguyễn Bá Vân, Mỹ thuật thời Mạc, Viện Mỹ thuật, 1993.
11. Kiều Thu Hoạch, Xứ Đoài, Nxb Văn hóa dân tộc, 2000.
