Nghệ thuật Điêu khắc Phật đá Hàn Quốc

Ngày 02/12/2017 1,954 lượt xem

Điều kiện tự nhiên với nguồn đá hoa cương phong phú là sự kích thích công cuộc tạo dựng phật đá phát triển mạnh mẽ ngay từ khi Phật giáo được truyền bá vào bán đảo Hàn. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, nhưng nhờ sự tiếp thụ một cách có chọn lọc, có kế thừa và sáng tạo, phật đá Hàn Quốc vẫn mang đậm bản sắc thể hiện ở cốt cách và cái thần của tác phẩm.

  1. Chất liệu

Có thể thấy tượng Phật được làm từ các chất liệu ở xung quanh chúng ta: từ sắt, đồng, đồng mạ vàng, đá, gỗ… cho tới đất sét, đất nung… Phải chăng sự khác nhau về công đức của các vị Phật sẽ quy định sự quý hiếm và bền vững của chất liệu tạo thành? Thực ra không phải vậy, trong Phật giáo, sự lựa chọn chất liệu không theo quy định, giới hạn và sự bắt buộc nào, không hề chọn theo chênh lệch về công đức Phật. Tạo tượng Phật bằng ngọc, bằng vàng có lẽ là biểu lộ lòng tôn kính, sự sùng bái, nhưng điều đó không có nghĩa tượng trưng cho một công đức lớn rộng như trời biển. Với những người không đủ điều kiện để tạo tượng Phật bằng vàng, bằng bạc, họ có thể sử dụng những chất liệu hợp với khả năng của mình. Khi đó, chúng ta không thể nói rằng, họ đã làm giảm công đức của vị Phật mà họ định tạo. Nhưng, nếu vậy thì cơ sở để biểu thị công đức là cái gì? Chỉ có sự thanh khiết là cơ bản, là điều kiện chủ yếu. Ở Hàn Quốc, khi người thợ tạc tượng thì phải chọn ngày tốt để tắm tượng bằng nước thơm. Khi đúc tượng thì phải làm việc với một tinh thần đặc biệt khác với khi làm các sản phẩm thế tục. Hơn nữa, nếu lúc đầu định tạc tượng Adiđà, sau đổi ý chuyển sang tạc tượng Thích ca hay Di lặc, hay tạc tượng Bồ tát bằng chất liệu còn lại khi tạc tượng Phật khác đều không được. Thậm chí, việc tạo hình thú, hình chim bằng những chất liệu còn lại sau khi tạc tượng Phật đều bị cấm đoán một cách nghiêm khắc. Chỉ cần chất liệu tạo Phật đảm bảo thanh khiết, còn việc chọn chất liệu như thế nào cho phù hợp với tài lực của bản thân thì không có sự hạn chế nào cả.

Hiện nay, tượng Phật ở Hàn Quốc còn lại rất đa dạng, nhiều nhất là tượng đá. Điều này có cơ sở từ điều kiện sản xuất và cấu tạo bền chắc của chất liệu. Trong lịch sử, nghề đá ở Hàn xuất hiện từ rất sớm. Bán đảo Hàn được thiên nhiên ưu đãi đặc biệt, có một số lượng lớn đá hoa cương trắng phân bổ rộng rãi trên phạm vi toàn quốc, tạo điều kiện cho nghề đá lan rộng nhanh chóng. Mỹ thuật Phật giáo dùng chất liệu đá nhờ vậy mà phát triển mạnh mẽ. Các đức Phật khi thì được biểu hiện với nụ cười huyền bí, lúc lại đứng đắn nghiêm trang, có khi lại được biểu hiện với sự uy nghi mà từ bi. Có những pho tượng nhỏ chưa đầy một mét nhưng lại có những bức trên vách đá cao hàng chục mét, khi đứng độc lập khi tạo thành cặp, thành nhóm…

Mỹ thuật điêu khắc Phật giáo bằng chất liệu đá không chỉ đơn thuần là tượng Phật mà còn có tháp, đèn, lăng, lâu đài, bia, rồng, chậu, máng, thú, rùa… Những di vật quý giá này đang chiếm giữ một phần trọng yếu trong kho tàng mỹ thuật cổ và trung đại của Hàn Quốc.

  1. Công thức cấu trúc

Phật đá Hàn Quốc chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Hoa, vì vậy, phép dựng tượng cổ xưa của người Hàn cũng không phải là ngoại lệ. Trong lịch sử tạo tượng Phật, có những công thức truyền miệng được lưu truyền trong dân gian, vì vậy, khó có thể biết một cách chắc chắn những nghệ nhân Hàn Quốc xưa đã sử dụng công thức nào trong sáng tạo nghệ thuật. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ, có thể thấy tượng Phật Trung Hoa và tượng Phật Hàn Quốc có sự tương đồng về cấu trúc tự thân, ở cách bố trí đặt để…, vì vậy, có thể cho rằng đó là biểu hiện của một phương pháp tạo hình thống nhất.

Cuốn Tạc tượng độ kinh của người Trung Quốc có chép về những phép tạc tượng cổ. Có thể tóm tắt ngắn gọn như sau: Tượng Phật ngồi cao 64 ngón, kể cả búi tóc là 68 ngón. Tượng Phật đứng cao 116 ngón, kể cả búi tóc cao 120 ngón, mặt dài 16 ngón, rộng 12 ngón, cổ cao 10 ngón, từ ngực tới rốn dài 12 ngón, từ rốn xuống âm nang 12 ngón, từ âm nang tới bẹn 4 ngón, từ bẹn tới đầu gối 4 ngón, từ đầu gối xuống mắt cá chân 24 ngón, từ mắt cá chân tới hết bàn chân 4 ngón, từ đầu vai tới khuỷu tay 20 ngón, từ khuỷu tay xuống cổ tay 16 ngón, từ cổ tay tới đầu ngón giữa 12 ngón…

Công thức truyền miệng thường ngắn gọn súc tích, ví dụ như tọa tứ lập thất – tượng ngồi có chiều cao bằng 4 lần đầu tượng, tượng đứng bằng 7 lần chiều dài của đầu tượng. Hay nhất diện phân tam trùng – chiều dài khuôn mặt chia ba phần bằng nhau, tức từ chân tóc tới chân mày, từ chân mày tới đỉnh mũi, từ đỉnh mũi tới cằm… Với cách dựng hình theo công thức trên, tượng ngồi thường có bố cục tam giác cân bằng vững chãi, toàn thân là một khối đóng kín, đối xứng qua trục dọc…

Quan sát tượng Phật đá Hàn Quốc, ta thấy đa số các tượng đều được dựng theo công thức nêu trên, thể hiện rõ nhất ở các pho tượng Như lai tọa thời Shilla. Tuy nhiên, tượng thời Koryo lại không quan tâm nhiều tới tỷ lệ các bộ phận cấu thành tượng. Điều này không phải là không có lý do. Tượng Phật được sáng tạo ban đầu không phải chỉ nhằm chức năng là tượng thờ với sự trang nghiêm, tĩnh tại, vì thế ngoài những tác phẩm được dựng theo đúng khuôn mẫu và quy tắc, các nghệ nhân dân gian đã tự do phát huy tính sáng tạo theo cảm hứng nghệ thuật của mình và tạo nên các tác phẩm ở tư thế động, vui tươi và gần với đời thực hơn.

  1. Các thể loại tượng

Tượng Phật đá truyền thống Hàn quốc biểu hiện ra ở nhiều hình thái đa dạng, độc đáo. Có tượng tròn được đặt trong không gian độc lập, có tứ diện Phật khắc ở bốn mặt hình thuyền của khối đá lớn, tượng Phật trong hang động, trong khám thờ, khắc trên vách đá, trên bia văn…

Nói tới tượng tròn, tức là nói tới tượng đứng độc lập và ta có thể quan sát nó từ bất cứ góc độ nào, bên phải hay bên trái, đằng trước hay đằng sau… Điều đặc biệt ở thể loại tượng này là dù tượng đứng hay ngồi thì hầu hết được đặt trên bệ đá và có quang bối, đặc biệt là ở những pho tượng ngồi và tượng thờ thì bệ đá và quang bối lại càng không thể thiếu. Ở Hàn Quốc, tượng tròn được tạc nhiều nhất là tượng Bồ tát, sau đó là tượng đức Phật Như lai, ngoài ra còn có tượng Nhân vương, Tứ thiên vương, Thiên bộ, Minh vương… Tượng tròn có nhiều tư thế đa dạng phong phú: tượng đứng, tượng ngồi, tượng Panka, nhị Phật bình tọa tượng, ỷ tượng…

Tứ diện Phật là tượng Phật được khắc ở bốn mặt của khối đá lớn được tạo hình thuyền, thường khắc các tượng Phật hay Bồ tát khác nhau. Có thể khắc một tượng Như lai hay Tam tôn thượng có A di đà hoặc Bồ tát làm Phật chủ. Có thể khắc ở mặt này là tượng ngồi, mặt kia là tượng đứng… và chiều cao, kích thước các tượng ở bốn mặt không nhất thiết phải như nhau.

Tượng Phật trong khám thờ là dạng thức của thời đại Koryo. Hiện nay chỉ còn lại hai khám thờ Phật. Một ở chùa Yongmyeong – Pyeongyang, một ở Dathappung- Hwasun. Khám Phật ở Pyeongyang hình bát giác, trong khám có đặt tượng Như lai (đã mất đầu). Bệ tượng hình bát giác, mặt trước có khắc tượng Bồ tát. Khám Phật ở Hwasun có nền hình khối vuông, phần trên đặt hai khối đá tạo thành hình chữ U. Khám thờ có hình dạng một ngôi nhà bát giác, trong đặt hai tượng Phật: Một chắp hai tay trước ngực hướng về phía bắc, một hướng về phía nam một tay chỉ về phía bên cạnh, một tay đặt trước bụng. Tượng trong khám thờ là đối tượng để lễ bái nên rất trang nghiêm, tĩnh tại nhưng vẫn lộ vẻ từ bi.

Tượng Phật trong hang động thường được tạo thành bằng cách lợi dụng các khối đá tự nhiên để tạc tượng tròn và khắc các vị Phật khác trên vách động. Các tượng tròn thường là các vị Phật Như lai, Adi đà, Bồ tát… Tượng trên vách động thường là các vị Nhân vương, Bát bộ chúng, Tứ thiên vương…

Nhìn chung, các thể loại tượng Phật đá Hàn Quốc rất phong phú và đa dạng, có nhiều dạng thức độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc. Thể loại tượng tròn của Hàn Quốc hiện còn lại khá nhiều và trong đó có nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao.

  1. Mối quan hệ giữa không gian nghệ thuật và công trình điêu khắc

Trong nghệ thuật điêu khắc thì tượng tròn là thể loại thể hiện mức độ tự do và sự thoát ly cao nhất của điêu khắc đối với nghệ thuật kiến trúc và trang trí, bởi nó có sức biểu cảm tự thân rất cao. Nói như vậy không co nghĩa là môi trường không có ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ tới các tác phẩm điêu khắc, kể cả tượng tròn. Đó là ảnh hưởng của không gian ngoài trời và không gian nội thất.

Tượng ngoài trời

Các tượng Phật đá đặt ở ngoài trời thường là các tượng tròn có động tác uốn vặn mềm mại, hình thành những khối mảng, tạo mảng sáng tối rõ nét, phá vỡ độ tĩnh của cơ thể bằng tạo sức căng cơ học; tạo sự tương phản giữa nhẵn bóng và sần sùi, giữa khối chìm và nổi, phá vỡ độ trơ lì của bề mặt chất liệu, gây cảm giác về khối rõ ràng. Vì không gian ngoài trời rộng thoáng, có nắng và ánh sáng tự nhiên chan hòa, nếu bề mặt tượng căng tròn mà lại quá nhẵn bóng thì cảm giác về độ căng và nổi của hình khối sẽ bị giảm, các đường nét dễ bị nhòe mờ, cảm giác về mặt phẳng sẽ tăng lên, giá trị nghệ thuật của tác phẩm sẽ giảm.

Tượng trong khám Phật, hang động

Trong khám Phật, đặc biệt là trong hang động, không gian khép kín, ánh sáng ít và vào nội thất chủ yếu bằng con đường khúc xạ và phản quang nên cường độ yếu. Trong một không gian như thế những khối tròn nhẵn sẽ đọng ánh sáng và nổi rõ. Vì vậy, những pho tượng đặt trong đền chùa, hang động thường có bề mặt căng tròn và nhẵn bóng; ánh sáng nến khi tỏa sáng lại lung linh, roi vào chỗ sáng chỗ tối, chỗ đậm chỗ nhạt, gây cảm giác hư hư thực thực, mờ mờ ảo ảo… biểu hiện rõ triết lý sắc sắc không không của đạo Phật. Tất cả những yếu tố đó tạo nên một không khí huyền bí, linh thiêng, trang trọng nhưng lại hết sức giản dị, bình yên, thanh tao của chốn Phật đường.

Tượng ngoài hang động, khám Phật

Ở phía ngoài hang động, bên ngoài khám Phật, các vị Nhân vương, Bát bộ kim cương, Tứ thiên vương… đứng sừng sững như những ông hộ pháp bảo hộ Phật. Do được đặt sát tường hoặc khắc vào tường, không gian rộng rãi thoáng đãng hơn nên bề mặt của tượng được chia nhỏ theo cấu trúc y phục và giáp trụ. Tượng được biểu hiện bằng nhiều tư thế đa dạng. Các yếu tố trang trí được sử dụng một cách triệt để, thậm chí có khi tượng được phủ kín bằng những nếp áo hoặc hoa văn trên y phục.

  1. Các khuynh hướng nghệ thuật

Trong tiến trình phát triển, điêu khắc Phật giáo Hàn Quốc, do có sự hóa nhập với các biểu tượng của các tôn giáo khác (đặc biệt của đạo Shaman) đã tạo ra một thế giới đa thần giáo vô cùng phức tạp. Mỗi một loại tượng có những quy ước và biểu tượng riêng nhưng vẫn theo những định hướng chung mang tính hệ thống, toàn thể. Nhìn chung, điêu khắc Phật đá Hàn Quốc có những khuynh hướng sau:

Biểu cảm tự phát

Biểu cảm trực tiếp về cách tạo hình là đặc điểm dễ nhận thấy ở các pho tượng Hàn Quốc. Có hàng trăm pho tượng Như lai nhưng không tượng nào giống tượng nào. Cùng biểu hiện phong thái uy nghiêm, trầm tư tĩnh tại, nhưng mỗi tác phẩm lại mang một nét đặc sắc riêng không thể trộn lẫn. Nụ cười huyền bí ở các tượng là không giống nhau, đó là nhờ có sự biểu hiện sinh động, tinh tế ở nét mặt, ánh mắt, bờ môi… Mỗi một pho tượng có cuộc sống riêng của nó, dù đồng nhất về hình thức. Đó chính là sinh khí mà người nghệ nhân đã thổi vào đứa con tinh thần của mình. Không chỉ đơn thuần là một pho tượng, đó là tâm huyết, tình cảm, sự sùng đạo, là ước vọng của con người muốn vươn tới những giá trị tốt đẹp, thanh khiết. Hơn nữa, tác phẩm nghệ thuật có đời sống riêng, có sức sống nội tại, nó biểu cảm tự phát chứ không theo sự ép buộc, một sự sắp xếp hay yêu cầu nào… Tuy nhiên, các pho tượng Phật có cùng một thời kỳ chế tác vẫn mang những nét đặc thù không chỉ về dạng thức mà còn về cả tinh thần của xã hội.

Hiện thực, nhân đạo

Khuynh hướng hiện thực, nhân đạo thể hiện rõ nhất là các pho tượng mang tính nhập thế thời Shilla thống nhất và hệ thống Tế tượng, tượng La Hán… Tế tượng là tượng La Hán được tạo thành theo thủ pháp nghệ thuật hiện thực loại hình hóa – tức là các nhân vật không có thực được tạo hình theo nhân tướng (tướng mạo con người) và tính cách con người. Đây cũng chính là một trong các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc của Trung Quốc. Ở Việt Nam, thủ pháp nghệ thuật này biểu hiện một cách tinh tế ở mười tám vị tổ chùa Tây Phương.

Trang trí hoành tráng

Khuynh hướng này thể hiện tập trung ở nhóm tượng Bát bộ chúng, Tứ thiên vương, Nhân vương… ở trang thái động hoặc được trang trí tới từng chi tiết trên bề mặt bởi y phục và hoa văn trên áo. Các tượng này xâm phá không gian nhiều hơn, tạo ra cái động khỏe, khoáng đạt, đối lập với tĩnh lặng, trầm ngâm và cô đọng của các tượng Phật Bồ tát. Cũng giống như ở Việt Nam, khuynh hướng này ở tượng Phật Hàn Quốc được biểu hiện vừa phải, trung dung chứ không quá dữ tợn như tượng Phật ở Nhật hay ở Trung Quốc.

Nữ tính – lý tưởng hóa

Là khuynh hướng khá nổi bật khi xã hội Hàn Quốc coi Quán Thế âm Bồ tát như một người mẹ từ bi nhân hậu, bao dung và tha thứ. Tiêu biểu cho nhóm này là tượng Quán Thế âm mười một mặt mang vẻ đẹp lý tưởng của người phụ nữ Hàn Quốc, từ nét mặt, dáng người cho tới vẻ nhân hậu bao dung… Pho tượng là một tác phẩm đạt tới đỉnh cao nghệ thuật và nó mang theo các ước vọng về vẻ đẹp lý tưởng – sự hài hòa của tâm hồn và thể chất, ước vọng vươn tới cái đẹp hoàn thiện hoàn mỹ của người dân Hàn Quốc.

Tóm lại, điêu khắc Phật đá Hàn Quốc có những quy định khá nghiêm ngặt về chất liệu và thường tuân theo những công thức chế tác nhất định. Thể loại tượng khá phong phú và được tạo thành trong mối quan hệ gắn bó với không gian nghệ thuật. Khuynh hướng biểu cảm tự phát, hiện thực nhân đạo, trang trí hoành tráng và nữ tính – lý tưởng hóa là những khuynh hướng nghệ thuật chính, tiêu biểu của tượng Phật đá Hàn Quốc. Chúng ta cũng có thể dễ dàng tìm thấy những nét tương đồng và khác biệt trong đặc trưng của nghệ thuật điêu khắc Phật đá Hàn Quốc với các nước trong khu vực đồng văn.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 318, tháng 12-2010

Tác giả : Hoàng Thị Yến